Mạc Cửu là người nhà Minh, sinh năm 1655 ở Lôi Châu, Quảng Đông – Trung Quốc. Vào những năm 70 của thế kỷ XVII, người Mãn Thanh, sau thời gian tràn vào Trung Quốc, lật đổ triều đại nhà Minh, thiết lập triều đại nhà Thanh thì đến lúc này cũng đã trấn dẹp xong những phản kháng yếu ớt cuối cùng của dư đảng nhà Minh ở Quảng Đông.

Không chịu chung sống dưới sự thống trị của nhà Thanh, Mạc Cửu đưa gia đình cùng những người đồng hương thân tín xuống thuyền, tha hương về phương Nam.

Những hoạt động trước năm 1708

Sài Mạt – còn gọi là Sóc Mẹt hay Tuk Mea (trong sách vở phương Tây), Tuc Mia (trên bản đồ hành chính các nước Việt, Lào, Campuchia vẽ năm 1995)… bây giờ thuộc tỉnh Kampot, Campuchia – là địa điểm đổ bộ đầu tiên, sau những ngày dài lang bạt trên biển Đông của đoàn thuyền Mạc Cửu.

Sài Mạt ngày ấy đất đai còn hoang vu, thưa thớt dân cư nhưng cặp mắt tinh tường của một thương gia trước đây từng đã từ Hoa Nam đến Phi-luật-tân (Philippines), Ba-La-vi-a (Indonesia) làm ăn, buôn bán của Mạc Cửu đã sớm nhận ra một viễn cảnh thịnh vượng, trù mật không xa, nếu biết khai thác nơi đây.

NHỮNG NGƯỜI MỞ ĐẤT: Mạc Cửu - Người dâng đất Hà Tiên - Ảnh 1.

Đền thờ họ Mạc tại TP Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. (Ảnh: DUY NHÂN)

Do bấy giờ Sài Mạt đang thuộc về triều đình nước Chân Lạp nên từ Sài Mạt, Mạc Cửu đã đến ngay U-Đông, “chạy” được một chức quan, gọi là “Ốc Nha” – chuyên lo việc thương mại – rồi trở về, bắt đầu sự nghiệp kinh doanh của mình, bằng cách mở sòng bạc, thu lợi từ “hoa chi” (thuế đánh bạc). Sau đấy, nhờ may mắn, đào được một hầm bạc, nên càng trở nên giàu có.

Nhưng đến khoảng những năm từ 1687 đến 1688, quân nước Xiêm La láng giềng tràn sang đánh phá Chân Lạp, Mạc Cửu gặp phải họa lớn, phải đi theo quân Xiêm La về nước ấy, sống 10 năm ở hải cảng Muang Galapuri (sử sách Việt gọi là Vạn Tuế Sơn Hải Tân) rồi mới trốn về được.

Từ đây, khoảng năm 1700, chính thức mở ra thời kỳ hoạt động rầm rộ của Mạc Cửu trên cả vùng duyên hải “vịnh Thái Lan”, mà chủ yếu là dựa trên nền tảng của việc đã sẵn nhiều người Việt Nam, Hoa, Chân Lạp, Chà Và… tìm đến tụ cư – “chiêu mộ” thêm những dân lưu tán từ các nơi về làm ăn, sinh sống, đặc biệt là tổ chức thành công việc “lập ấp” – tức thiết lập các đơn vị hành chính cư dân – gọi là “xã thôn” trên miền đất ấy.

Có 7 xã thôn – chắc chắn là lớn rộng hơn nhiều so với các đơn vị được gọi là “xã thôn” về sau – đã được Mạc Cửu thành lập, được sử sách gọi tên và ghi chú địa vực, như sau:

– Phú Quốc (Kol Trah) là đảo lớn giữa biển.

– Cần Bột (Kampot) là cảng thị ở phía Tây, cách trấn lỵ Hà Tiên 165,5 dặm.

– Giá Khê (Rạch Giá) là cảng thị ở cách trấn lỵ Hà Tiên hơn 193 dặm về phía Đông.

– Lũng Kỳ (Ream) là sông ở phía Tây trấn lỵ Hà Tiên.

– Hương Úc (Vũng Thơm – Kompongsom) là vịnh và hải cảng ở phía Tây trấn lỵ Hà Tiên.

– Cà Mau (Tuk Khmau – Nước đen) ở địa giới cực Đông của trấn Hà Tiên.

– Và chính là Hà Tiên (Mang Khâm, Phương Thành) thủ phủ, trên sông Tà Ten (PrekTen), tức sông Giang Thành.

Một hình thức “tiểu quốc” (được sách “Văn hiến thông khảo” đời Thanh gọi là “nước này”, Pierre Poivre gọi là “Vương quốc Ponthiamas”, còn sử nhà Nguyễn gọi là “Căn Khẩu Quốc”) đã hình thành trên những “thôn xã” ấy, của Mạc Cửu.

Những hoạt động sau năm 1708

Năm 1708 là thời điểm có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng đối với cuộc đời Mạc Cửu, cũng như cả miền đất do ông thiết lập.

Ấy là lúc triều đình Chân Lạp nội tình thì rối ren, suy thoái, bên ngoài thì Xiêm La thường xuyên uy hiếp, đánh phá, khiến áp lực đối với Mạc Cửu rất lớn. Do đấy, ông quyết định theo lời khuyên của nhiều người, trong đó có cả bà vợ thứ (là Bùi Thị Lẫm, người Việt, quê ở Biên Hòa), cả bà mẹ già (nhớ con, nên đã vượt biển đến tìm và sống cùng ông) nữa nhưng sử sách chỉ chép được tên một “mưu sĩ” là Tô Quân, rằng: “Nam triều (của các chúa Nguyễn) có tiếng nhân nghĩa, uy đức, vốn đủ tin cậy. Không gì bằng đến gõ cửa xưng thần, để gây thế bám rễ vững chắc. Nếu có một biến cố gì thì nhờ giúp đỡ”.

NHỮNG NGƯỜI MỞ ĐẤT: Mạc Cửu - Người dâng đất Hà Tiên - Ảnh 2.

Lăng Mạc Cửu tại TP Hà Tiên. (Ảnh: DUY NHÂN)

Thế là vào tháng 8, mùa thu năm Mậu Tý (1708), một phái đoàn do các “thuộc hạ” của Mạc Cửu là Trương Cầu, Lý Xá theo lệnh chủ đã lên đường, mang theo lễ vật và tờ biểu đến Phú Xuân, xin yết kiến chúa Nguyễn Phúc Chu, khẩn cầu xin được bảo hộ để đứng đầu, trông coi đất (mới được mở mang thành 7 xã thôn) ấy, như sách “Gia Định thành thông chí” đã chép.

Bấy giờ, xứ Đàng Trong nước Việt của các chúa Nguyễn, từ năm 1698, đã được tướng Nguyễn Hữu Kính (Nguyễn Hữu Cảnh) mở mang, đặt định, lập thành “Phủ Gia Định” (ở trung tâm miền Nam Bộ ngày nay) và đang tiếp tục “kinh lược”, tức thu xếp, mở mang, đặt định bộ máy chính quyền người Việt… ở mạn cực Tây Nam.

Được Mạc Cửu tự nguyện đem miền đất ở mạn ấy, xin “thần phục” thì rõ ràng và chắc chắn, không gì đáng trông đợi hơn. Lập tức, vẫn như lời sách “Gia Định thành thông chí”, “Chúa Nguyễn Phúc Chu chuẩn ban cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên và phong tước cho là Cửu Ngọc Hầu”.

Đây là biện pháp “lưỡng lợi” cho cả hai bên: Các chúa Nguyễn và xứ Đàng Trong của nước Việt không tốn mũi tên hòn đạn và áp lực chính trị nào mà vẫn mở mang bờ cõi, nhập vào bản đồ quốc gia, được một miền đất đai và cư dân rộng lớn, quan trọng và trù mật. Còn Mạc Cửu thì được bảo lãnh, bảo đảm sự an toàn, vẫn giữ được vị trí người đứng đầu, để tiếp tục mở mang, khai thác, phát triển các lợi ích của mình!

NHỮNG NGƯỜI MỞ ĐẤT: Mạc Cửu - Người dâng đất Hà Tiên - Ảnh 3.

Một khu vực trung tâm của TP Hà Tiên ngày nay. (Ảnh: NGUYỄN VĂN DƯƠNG)

Vì thế, một động thái nhiều ý nghĩa, giá trị và tác dụng nữa đã diễn ra ngay 3 năm sau năm 1708 lịch sử đó:

– “Tháng tư, mùa hạ, năm Tân Mão (1711), Tổng binh trấn Hà Tiên, Cửu Ngọc Hầu Mạc Cửu đến cửa khuyết, tạ ơn” – sách “Gia Định thành thông chí” chép.

– Trấn Hà Tiên thuộc Xứ Đàng Trong của nước Việt, do chức Tổng binh Cửu Ngọc Hầu của triều đình các chúa Nguyễn đứng đầu, từ đấy chính thức ra đời.

Và Mạc Cửu, cho đến năm qua đời (1735) thì còn có thêm hơn 20 năm nữa để bằng nhiệt tình và tài năng, tiếp tục mở mang nông nghiệp, ngư nghiệp, đặc biệt là thương nghiệp, cho miền đất Hà Tiên, từ đây và mãi mãi về sau, là bộ phận quan yếu, không thể tách rời của lãnh thổ và sự nghiệp nước Việt.

Trấn Hà Tiên thời Mạc Cửu dâng đất là một miền rộng lớn và liền lạc, chạy dọc dài men duyên hải Tây Nam, tương ứng với các tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau ngày nay, lấy TP Hà Tiên bây giờ làm trung tâm. Là “Xứ sở của những người siêng năng muốn đến để lập nghiệp. Hải cảng được mở rộng cho tất cả các nước. Rừng hoang được khai phá một cách thông minh, đất hoang thành ruộng lúa, kênh rạch được đào để đưa nước vào ruộng, mùa màng sung túc, thoạt đầu thì cung cấp cho dân cày no đủ, còn về sau thì làm lợi ích cho thương mại phát triển” – như lời kể của Pierre Poivre, thương nhân người Pháp, đương thời từng có mặt ở chính ngay Hà Tiên.

Ung dung nhắm mắt ở tuổi 80

Hoàn tất sự nghiệp đưa miền đất Hà Tiên như thế nhập bản đồ nước Việt, vào tháng 5, mùa hạ, năm Ất Mão (1735), Mạc Cửu ung dung nhắm mắt lìa đời ở tuổi thọ 80. Đền thờ, mộ táng và anh linh của người dâng đất Hà Tiên đang hiện hữu ở chân núi Bình San – trung tâm của miền đất mà họ Mạc đã dày công khai phá, đứng đầu, với chức Tổng binh, tước Cửu Ngọc Hầu của vương triều các chúa Nguyễn, ở xứ Đàng Trong, nước Việt, thời tiến hành cuộc Nam Tiến thần thánh, mở mang cõi bờ.

Nhà sử học Lê Văn Lan